Từ ngày 20/3/2018, việc thu tiền SDĐ sẽ được thực hiện theo Thông tư số 10/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 76/2014/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền SDĐ. Theo đó, Thông tư số 10/2018/TT-BTC bổ sung quy định về xác định tiền SDĐ khi công nhận QSDĐ (cấp GCN QSDĐ) cho hộ gia đình, cá nhân đối với đất ở có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004.
Cụ thể, về xác định tiền SDĐ khi cấp lại GCN đã cấp không đúng quy định của pháp luật, Thông tư nêu rõ, khi cấp lại GCN đã cấp không đúng quy định của pháp luật theo quy định tại khoản 41 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai thì tiền SDĐ được xác định như sau: Trường hợp GCN đã cấp không đúng quy định của pháp luật do lỗi của cơ quan nhà nước thì tiền SDĐ khi cấp lại GCN được xác định theo chính sách và giá đất tại thời điểm đã cấp GCN trước đây.
Trường hợp GCN đã cấp không đúng quy định của pháp luật do lỗi của người SDĐ thì tiền SDĐ khi cấp lại GCN được xác định theo chính sách và giá đất tại thời điểm cấp lại GCN QSDĐ.
Đối với việc thu, nộp và hoàn trả nghĩa vụ tài chính của người SDĐ: Trường hợp người SDĐ chưa nộp tiền SDĐ khi được cấp GCN trước đây hoặc số tiền đã nộp nhỏ hơn số tiền SDĐ được xác định lại thì người SDĐ phải nộp số tiền SDĐ còn thiếu; trường hợp số tiền SDĐ mà người SDĐ đã nộp trước đây lớn hơn số tiền SDĐ phải nộp khi xác định lại thì người SDĐ được Nhà nước hoàn trả số tiền đã nộp thừa theo quy định.
Việc thu, nộp và hoàn trả nghĩa vụ tài chính của người SDĐ được thực hiện theo pháp luật về thu tiền SDĐ, NSNN, thuế và pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, Thông tư số 10 cũng bổ sung quy định về thu tiền SDĐ khi thay đổi quy hoạch xây dựng chi tiết. Theo đó, thu tiền SDĐ khi cấp GCN đối với diện tích đất tăng thêm do đo đạc lại so với giấy tờ về QSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ: Trường hợp được cấp GCN đối với diện tích tăng thêm theo quy định tại khoản 20 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP mà hộ gia đình, cá nhân đã có GCN thì nộp tiền SDĐ đối với phần diện tích tăng thêm theo chính sách và giá đất tại thời điểm đã cấp GCN.
Trường hợp được cấp GCN đối với diện tích tăng thêm theo quy định tại khoản 20 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP mà hộ gia đình, cá nhân có giấy tờ về QSDĐ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai, Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì nộp tiền SDĐ đối với phần diện tích đất tăng thêm chính sách và giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận QSDĐ tăng thêm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ trước ngày 15/7/2014, thuộc đối tượng nộp truy thu tiền SDĐ thì thời hạn nộp số tiền SDĐ truy thu theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.
Trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 nhưng đến trước ngày 01/7/2014 chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền SDĐ thì tính thu tiền SDĐ theo quy định tại điểm a, b và đ khoản 1 Điều 20 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.
Các trường hợp phát sinh, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính từ thời điểm Nghị định số 135/2016/NĐ-CP, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP, Nghị định số 123/2017/NĐ-CP có hiệu lực đến thời điểm Thông tư này có hiệu lực được áp dụng xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định tại Nghị định số 135/2016/NĐ-CP, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP, Nghị định số 123/2017/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư này. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc, đề nghị các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để được xem, giải quyết./.
BBT tổng hợp từ tạp chí Tài nguyên và Môi trường
(Kỳ 1 - Tháng 4/2018 của tác giả Ngọc Yến)