Vào hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 đã biểu quyết nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp gồm Lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Theo Nghị quyết của Quốc hội, Hiến pháp có hiệu lực thi hành ngay từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) ban hành lệnh công bố - ngày 18-4-1992. Sau 9 năm thực hiện, Quốc hội khóa X, Kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25-12-2001, sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và văn kiện các đại hội của Đảng (khóa VI, 1986-1991; khóa VII, 1991-1996). Việc sửa đổi, bổ sung gồm Lời nói đầu, 23 điều và bỏ khoản 8 của Điều 91, với số chương, số điều vẫn như trước. Sau 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ nhất, ngày 6-8-2011, đã ra Nghị quyết số 06/2002/QH13 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần thứ hai trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Sự ra đời Hiến pháp năm 1992
Từ năm 1946 đến nay, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên, ra đời trong bối cảnh một nước Việt Nam vừa giành được độc lập. Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Các hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở những biến đổi về sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trên mỗi bước đường của các giai đoạn cách mạng, nhưng vẫn kế thừa những giá trị đã được thử thách theo thời gian, kết tinh bền vững.
Hiến pháp năm 1992 ra đời trên cơ sở sửa đổi căn bản, toàn diện Hiến pháp năm 1980. Sau 11 năm phát huy hiệu lực, không ít các quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước đang biến chuyển nhanh chóng. Trước Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), nền kinh nước ta là nền kinh tế kế hoạch hóa, chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ sau Đai hội VI của Đảng trở đi, nền kinh nước ta chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô (sự quản lý cuả Nhà nước). Cũng từ đây, thuật ngữ "chuyên chính vô sản" được thay thế bằng "hệ thống chính trị", được xác định hoàn thiện hơn, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức thành viên và các tổ chức chính trị - xã hội; tự do, dân chủ được phát huy rộng rãi; về xã hội, đời sống nhân dân đã có bước cải thiện, các quyền lợi, trước hết là quyền lợi kinh tế, được bảo đảm hơn, và một số phong trào đã đạt kết quả khả quan như xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa... Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới phù hợp hơn để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân ở một trình độ cao hơn. Đại hội VI của Đảng là bước ngoặt vĩ đại, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác của Đảng..., đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; với chủ trương phải nắm vững các quy luật khách quan, hành động theo quy luật và tính quy luật, và phải lấy dân làm gốc. Về phương châm, phải "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật". Đại hội VI của Đảng đã đánh giá, phân tích sâu sắc những thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm của thời kỳ thực thi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài. Đại hội khẳng định, nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội, coi sự tác động qua lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm vóc; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, tư duy độc lập được phát huy, sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân được đề cao; mục tiêu xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh" được xác lập.
Trên nền tảng đó, Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 5, ngày 30-6-1989, đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để hiến định đường lối đổi mới trong giai đoạn cách mạng mới. Ban dự thảo Hiến pháp gồm 28 thành viên, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước làm Chủ tịch. Cuối năm 1991, dự thảo lần thứ ba được hoàn thành và được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân và sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), dự thảo Hiến pháp lần thứ tư đã được hoàn thiện và được trình tại Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi, với tinh thần trách nhiệm cao, dự thảo tiếp tục được hoàn chỉnh với chất lượng tốt nhất trong bối cảnh lúc bấy giờ. Hiến pháp năm 1992 đã được thông qua với 12 chế định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị; Chế độ kinh tế; Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, thủ đô và ngày quốc khánh; Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992, có thể nói, là một cuộc sinh hoạt chính trị dài ngày của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thật sự dân chủ trong thảo luận. Các ý kiến thảo luận, đóng góp được chắt lọc một cách đầy đủ, nghiêm túc về tất cả các vấn đề, từ những quan điểm chung cho đến các vấn đề cụ thể; từ chế định về chế độ chính trị cho đến tất cả các chế định tiếp theo thuộc nội dung Hiến pháp. Đây là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, là sản phẩm trí tuệ của toàn xã hội, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Ý nghĩa và giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Theo tiến trình sửa đổi, bổ sung đã định, tới Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII (tháng 10-2013), đất nước ta sẽ có bản Hiến pháp mới. Như vậy, Hiến pháp năm 1992 có thời gian hiệu lực dài nhất (22 năm) so với các bản hiến pháp trước. Cho tới nay, Hiến pháp năm 1992 đã để lại nhiều vấn đề có ý nghĩa và giá trị tốt đẹp, như: các nguyên tắc của Hiến pháp; Hiến pháp thể hiện cách mạng phát triển không ngừng; tính hiện thực của Hiến pháp; Hiến pháp là cơ sở khoa học để đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp... Dưới đây là một số vấn đề đáng quan tâm nhất.
Hiến pháp năm 1992 là cột mốc quan trọng của lịch sử lập hiến Việt Nam
Nếu Hiến pháp năm 1946 là hiến pháp đầu tiên của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, của một xã hội tự do, dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận bước thứ hai của lịch sử lập hiến Việt Nam, là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Hiến pháp năm 1980 là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, thì Hiến pháp năm 1992 là cột mốc thứ tư của lịch sử lập hiến Việt Nam - hiến pháp của công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc cả xã hội, bắt đầu từ đổi mới nền kinh tế và từng bước đổi mới vững chắc về chính trị. Hiến pháp năm 1992 kế thừa những tinh hoa, giá trị bền vững của ba bản hiến pháp trước đó, tuy nhiên, đây là bản hiến pháp đầu tiên vận dụng đầy đủ, nhuần nhuyễn, sáng tạo nhất (kể từ khi lập hiến đến nay) các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (lần đầu tiên văn kiện Đại hội VII của Đảng đã ghi rõ tư tưởng Hồ Chí Minh) về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp năm 1992 là mốc son của việc xây dựng và phát triển ngày càng vững chắc nền tảng kinh tế - xã hội của nước ta từ thập niên cuối cùng của thế kỷ XX cho đến hiện tại. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của nhân dân Việt Nam. Đó là bản hiến pháp thể hiện tính độc lập, tự chủ trong tiến trình của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện sâu sắc bản sắc dân tộc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn tính quốc tế và tính thời đại trên cơ sở phát huy những tinh hoa trí tuệ của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu tinh hoa văn hóa pháp lý của nhân loại.
Hiến pháp năm 1992 có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật hiện hành
Đây là đặc điểm chính trị - pháp lý đầu tiên của hiến pháp nói chung, Hiến pháp năm 1992 nói riêng. Điều 146 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định:
"Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp".
Đặc điểm chính trị - pháp lý nói trên còn thể hiện ở những nội dung quan trọng sau: Hiến pháp là văn bản có tính chất cơ bản, nền tảng nhất; có tính chất khái quát cao nhất; có tính chất phổ quát nhất; có tính chất xác định và khẳng định mạnh mẽ nhất; có tính chất ổn định cao và lâu dài nhất; được thừa nhận tuyệt đối nhất so với tất cả các loại văn bản pháp luật khác; quy định có tính chất cô đọng nhất, hoàn chỉnh nhất và đồng bộ nhất.
Hiến pháp năm 1992 vừa kế thừa, vừa phát triển các quan điểm của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Nếu Hiến pháp năm 1946 mới chỉ dựa trên 3 nguyên tắc như đã trình bày, thì Hiến pháp năm 1992 đã được hiến định đầy đủ các nguyên tắc, các quan điểm của Đảng trong đường lối đổi mới, đó là: chủ quyền quốc gia, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đại đoàn kết toàn dân tộc; tất cả quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô (có sự quản lý của Nhà nước), và sau này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong xã hội; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; phải điều hành, quản lý Nhà nước và xã hội theo Hiến pháp, pháp luật, xã hội phải có kỷ cương; tập trung dân chủ, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; bộ máy hành chính và quyền lực được tổ chức theo lãnh thổ, vừa bảo đảm tập trung, thống nhất, vừa bảo đảm tính chủ động, sáng tạo cho địa phương và cơ sở.
Hiến pháp năm 1992 thể hiện tính pháp lý, tính hiện thực cao
Nếu các hiến pháp trước đó có nhược điểm là còn thiếu vắng những sự điều chỉnh cần thiết, hoặc vừa lạc hậu trong điều chỉnh, vừa có những điều chỉnh "thiếu tính khả thi", thì Hiến pháp năm 1992 - một văn bản chính trị - pháp lý đã khắc phục được căn bản các nhược điểm đó. Trước hết, đã khẳng định một cách rõ ràng, mạch lạc vai trò và giá trị của luật pháp trong đời sống xã hội. Điều 12khẳng định rất rõ ràng:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Với tinh thần thượng tôn pháp luật, trên cơ sở những giá trị đích thực và khả năng to lớn của hiến pháp, Hiến pháp năm 1992 đã tạo nền móng cho việc xây dựng và đổi mới công tác pháp luật theo hướng có hệ thống, đồng bộ và cách thức điều chỉnh hợp lý, tương thích với từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành đến nay đã trải qua bốn khóa Quốc hội (từ khóa IX đến hết khóa XII), Quốc hội đã thông qua được 227 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành được 135 pháp lệnh. Các luật, bộ luật và pháp lệnh đó đã kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phục vụ có hiệu quả cho việc điều hành, quản lý đất nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới thắng lợi.
Hiến pháp năm 1992 là nền tảng để hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp
Rất đáng tự hào về hoạt động tư pháp của nước ta là, ngay từ Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã có hệ thống các cơ quan tư pháp. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định:
“Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có:
a) Tòa án tối cao.
b) Các tòa án phúc thẩm.
c) Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp".
Các hiến pháp năm 1959 và 1980 tiếp tục quy định hệ thống các cơ quan tư pháp, nhưng hoàn thiện hơn một bước, bao gồm tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Các cơ quan này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong các tòa án, có Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự. Tương tự như vậy, có Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân địa phương và các viện kiểm sát quân sự.
Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở để các cơ quan tư pháp tiếp tục phát triển và hoàn thiện. Theo quy định của Điều 127:
"Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập tòa án đặc biệt...".
Trên nền móng đó, đến năm 2002, bộ máy các cơ quan tư pháp đã được hoàn thiện ở một trình độ cao. Tòa án nhân dân tối cao bao gồm: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Ủy ban thẩm phán; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có các tòa án của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự Trung ương; tòa án quân sự quân khu và tương đương; tòa án quân sự khu vực. Tương ứng, hệ thống viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các viện kiểm sát quân sự (Viện kiểm sát quân sự Trung ương, viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, viện kiểm sát quân sự khu vực).
Nếu trước năm 1992, hệ thống pháp luật phục vụ cho hoạt động tư pháp còn tương đối eo hẹp, thì từ tháng 5-1992 đến nay, hệ thống pháp luật này đã khá đầy đủ, phong phú và tiếp tục được hoàn thiện, bao gồm các đạo luật: Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (tháng 10-1992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 12-1992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Bộ luật Dân sự (tháng 10-1995); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (tháng 5-1997); Bộ luật Hình sự (tháng 12-1997); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 6-2000); Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (tháng 4-2002); Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 11-2003); Bộ luật Tố tụng dân sự (tháng 6-2004); Bộ luật Dân sự (tháng 6-2005), và nhiều luật khác có liên quan như Luật Hôn nhân và gia đinh; Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự (tháng 8-2004); Pháp lệnh Giám định tư pháp (tháng 1-2005)... Với hệ thống tổ chức bộ máy và hệ thống pháp luật đó, hoạt động tư pháp đang phấn đấu và ngày càng đạt được mục tiêu hàng đầu là "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa", như Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ rõ.
Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc mở rộng và phát triển nền ngoại giao sáng tạo Việt Nam trong tình hình thế giới biến đổi khôn lường
Điều 14 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội".
So với các hiến pháp trước, đây là cách tiếp cận có tính hệ thống, tổng thể, bao quát đối với tất cả các nước trên thế giới, thay vì cách tiếp cận bộ phận trên cơ sở hệ tư tưởng xưa kia. Cách tiếp cận này phản ánh xu thế hội nhập khu vực cũng như hòa nhập quốc tế. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ sau Hiến pháp năm 1992 ngày càng được hoàn thiện và đem lại hiệu quả thiết thực. Nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội nhưng vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ bản sắc riêng có của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Chúng ta coi mục tiêu đối ngoại là góp phần củng cố môi trường quốc tế để phát triển kinh tế; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Trong chỉ đạo chính sách đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta kiên định nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội theo đúng tinh thần Hiến pháp, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược. Nếu tại Đại hội VII, Đảng ta đã nêu ra quan điểm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển; đến Đại hội IX được bổ sung: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước cộng đồng quốc tế; thì đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định tiếp: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh"(1).
Kết quả khả quan là, công tác đối ngoại nhanh chóng được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước; phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng; tham gia có hiệu quả vào nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 173 nước trên thế giới, trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, ký hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; tăng cường và phát triển quan hệ với nhiều đối tác khác; thu hút đầu tư nước ngoài với số lượng khá, tranh thủ vốn hỗ trợ phát trển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác ngày càng lớn. Có thể nói, ngoại giao kinh tế có bước phát triển khá tốt đẹp...
Trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao ý chí tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, tuân thủ thi hành Hiến pháp năm 1992 và đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong một phần tư thế kỷ của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 1992 đã và đang làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình./.
--------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 235-236
Bùi Ngọc ThanhTS, nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Đảng ủy Sở Tài chính