Tìm kiếm tin tức
Đơn vị hỗ trợ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP THEO NGHỊ ĐỊNH 43/2006/NĐ-CP VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI HIỆU QUẢ CƠ CHẾ QUẢN LÝ ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRONG THỜI GIAN TỚI
Ngày cập nhật 09/09/2014

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, Nhà nước đã ban hành các văn bản chính sách nhằm từng bước đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, Nhà nước đã ban hành các văn bản chính sách nhằm từng bước đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ động trong một số hoạt động đặc biệt là chủ động trong việc quản lý chi tiêu tài chính tại cơ quan, đơn vị. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9 tháng 8 năm 2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó, nhấn mạnh 5 nội dung như: Hoàn thiện thể chế về cơ cấu và phương thức đầu tư của NSNN; Hoàn thiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; xác định khung giá, phí dịch vụ sự nghiệp công từng bước tính đủ chi phí tiền lương, chi phí thường xuyên theo lộ trình phù hợp; thực hiện cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công; đẩy mạnh việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công; tăng cường hoàn thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước.

Qua thực tế triển khai cho thấy, việc thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ là đúng hướng và đạt được một số kết quả như: Tạo quyền tự chủ, chủ động cho đơn vị trong việc quản lý chi tiêu tài chính; Từng bước giảm bớt sự can thiệp của cơ quan quản lý ở cấp trên; Thu nhập của người lao động từng bước được cải thiện, phân phối tiền lương của đơn vị sự nghiệp đã gắn với hiệu quả chất lượng công việc thông qua quy chế chi tiêu nội bộ...

Hiện nay, trên địa bàn Thừa Thiên Huế, tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập đều thực hiện theo tinh thần của Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Tất cả các đơn vị đều xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và giải pháp thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ nhằm mục đích tăng thu, tiết kiệm chi và đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động.

Hầu hết các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ đều chú trọng các giải pháp tăng thu, đặc biệt là thu các hoạt động dịch vụ, tiết kiệm chi phí đầu vào, chi thường xuyên để từng bước cải thiện thu nhập cán bộ, tích lũy để tăng cường cơ sở vật chất.

Về giải pháp tăng thu: Có sự thảo luận, bàn bạc công khai, dân chủ, trong đơn vị; xây dựng kế hoạch và các phương án thực hiện nhằm mở rộng hoạt động, phát triển nguồn thu sự nghiệp; chú trọng đến giải pháp tài chính để động viên CBVC; tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tham gia vào dịch vụ;…

Về giải pháp tiết kiệm chi: Lãnh đạo các đơn vị đều có sự quyết tâm cao, quán triệt của lãnh đạo đối với CBVC; tuyên truyền và vận động CBVC quán triệt tốt việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bằng các biện pháp, giải pháp cụ thể, thiết thực tùy tình hình thực tế và tính chất công việc của mỗi các nhân, mỗi bộ phận, mỗi tổ chức…

Các đơn vị đã chủ động trong việc rà soát, xắp sếp lại bộ máy hoạt động của đơn vị mình tinh gọn, tiết kiệm chi phí…

Qua gần 10 năm thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP thì đại đa số các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số hiệu quả nhất định, số đơn vị có tiết kiệm được đạt khoảng 90%; số kinh phí tiết kiệm được trên 170,5 tỷ đồng (số liệu đến cuối năm 2011); số đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm trên 2 lần ( 02 đơn vị), số đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 1 đến 2 lần ( 70 đơn vị), số đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm dưới lần ( 443 đơn vị)…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, việc đổi mới cơ chế quản lý hoạt động của các đơn vị Sự nghiệp công lập còn gặp phải một số tồn tại, hạn chế, cụ thể:

+ Nhận thức của người dân, xã hội về đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập còn hạn chế, chưa đầy đủ, vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước; Trình độ và tư duy của một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ về công tác quản lý, quản trị nội bộ ở nhiều đơn vị sự nghiệp công lập chậm đổi mới, còn quan liêu, hách dịch, đặc biệt là các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mang tính độc quyền, ít có cạnh tranh.

+ Cơ chế quản lý và phương thức hoạt động của các đơn vị Sự nghiệp công lập chưa được đổi mới đồng bộ dẫn đến chất lượng và hiệu quả cung ứng các dịch vụ sự nghiệp còn hạn chế; Một số đơn vị Sự nghiệp công lập trong quản lý tài chính chưa đảm bảo theo các nguyên tắc hạch toán kinh tế đầy đủ. Quy chế chi tiêu nội bộ, phân phối thu nhập còn mang tính bình quân, chưa thật sự khuyến khích người lao động; Một số đơn vị Sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng kỹ thuật để tăng thu...

+ Hệ thống các tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chưa đồng bộ, chậm sửa đổi như: định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành, nghề, các định mức kinh tế-kỹ thuật của một số lĩnh vực đã làm hạn chế tính tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; Chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu còn thiếu tính thực tiễn, còn nhiều bất cập nhưng chưa được kịp thời bổ sung, sữa đổi cho phù hợp.

+ Chất lượng xây dựng và thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ một số đơn vị chưa thực sự xem Quy chế chi tiêu nội bộ là công cụ để điều hành chi tiêu của đơn vị mình, một số Thủ trưởng đơn vị và Lãnh đạo Công đoàn cơ quan chưa chú trọng giáo dục và động viên cán bộ công chức, viên chức thực hiện theo Quy chế; ý thức của cán bộ công chức, viên chức một số đơn vị vẫn chưa cao trong thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị mình,….

+ Các đơn vị phải sử dụng 40% nguồn thu để thực hiện cải cách tiền lương nên gặp khó khăn khi thực hiện cơ chế tự chủ. Một số đơn vị mặt dù đã huy động 40% nguồn thu đã đảm bảo trang trải cho việc thực hiện cải cách tiền lương nhưng vẫn còn dư, theo quy định phải để lại tiếp tục thực hiện tiền lương các năm tiếp theo nên khó khăn về nguồn vốn để phát triển các nhiệm vụ sự nghiệp, mở hoạt động dịch vụ, mặt khác các đơn vị sự nhiệp tự bảo đảm 100% kinh phí hoạt động thì khi thay đổi mức tiền lương thì nhà nước cũng không bổ sung khoản kinh phí này mà đơn vị phải tự cân đối, do đó việc bắt buộc các đơn vị này huy động nguồn làm lương sẽ không phù hợp thực tế; Việc huy động 40% nguồn làm lương từ chênh lệch hoạt động dịch vụ tại các đơn vị sự nghiệp là chưa thực sự hợp lý, vì các đơn vị sự nghiệp có hoạt động dịch vụ đều thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm như doanh nghiệp, vì vậy nếu huy động nguồn làm lương từ hoạt động dịch vụ sẽ không kích thích, động viên các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực này.

Để quản lý hoạt động của các đơn vị Sự nghiệp công lập đạt hiệu quả cao, thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục tạo hành lang, pháp lý thông thoáng cũng như có cơ chế chính sách tài chính đối với loại hình dịch vụ này.

Bên cạnh đó, Thông báo số 37-TB/TW ngày 26/05/2011 của Bộ Chính trị kết luận về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị Sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” đã nhấn mạnh:

Một là, tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với dịch vụ sự nghiệp công phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội.

Hai là, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc đầu tư cơ sở vật chất các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công cơ bản; Đảm nhiệm vai trò cung cấp một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công có tính chất thiết yếu, đồng thời thực hiện đồng bộ các chính sách thúc đẩy xã hội hóa nhằm thu hút tối đa nguồn lực của xã hội tham gia phát triển các dịch vụ sự nghiệp công đặt dưới sự giám sát và quản lý của Nhà nước.

Ba là, Nhà nước đảm bảo kinh phí để các đối tượng chính sách, gia đình có công và người nghèo được thụ hưởng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; Đối với các đối tượng còn lại, thực hiện chính sách chia sẻ chi phí cung cấp dịch vụ sự nghiệp công...

Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo kết luận 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị, thể hiện ở những điểm sau:

Một là, hoàn thiện thể chế về cơ cấu và phương thức đầu tư của NSNN. Đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị Sự nghiệp công lập ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng miền núi, biên giới và hải đảo; Thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản thiết yếu với chất lượng cao hơn.

Hai là, hoàn thiện thể chế về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị Sự nghiệp công lập. Tăng cường phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn cho các đơn vị Sự nghiệp công lập đồng bộ cả về tổ chức, thực hiện nhiệm vụ và tài chính. Trước mắt thực hiện thí điểm đối với nhóm các đơn vị Sự nghiệp công lập có khả năng xã hội hóa cao, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động như các trường đại học, dạy nghề, bệnh viện. Thực hiện minh bạch các hoạt động liên doanh, liên kết; Khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn.

Ba là, hoàn thiện thể chế về cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công. Xây dựng, hoàn thiện và ban hành hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công. Cùng với đó, đổi mới cơ chế tính giá đặt hàng sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công; Từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý trong giá dịch vụ sự nghiệp, phù hợp với thị trường và khả năng của NSNN.

Bốn là, hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công.

Năm là, tăng cường hoàn thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường.

Ngoài những quan điểm, định hướng chung của Đảng và Chính phủ nêu trên, tại địa phương xin kiến nghị một số nội dung cụ thể sau:

- Ủy ban nhân dân tỉnh sử dụng nguồn ngân sách địa phương và nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia bổ sung vốn đầu tư cho các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công cơ bản như giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ; đảm nhiệm vai trò cung cấp một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công có tính chất thiết yếu; Tăng cường hơn nữa công tác xã hội hoá nhằm thu hút tối đa nguồn lực của xã hội (bao gồm cả đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực theo quy định của pháp luật) tham gia phát triển các dịch vụ sự nghiệp công dưới sự giám sát và quản lý của Nhà nước.

- Hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các phương thức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và nâng cao chất lượng, số lượng của các loại hình dịch vụ này.

- Đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế tài chính của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, thúc đẩy áp dụng các kỹ năng quản lý, quản trị tiên tiến của các thành phần kinh tế, tạo cơ chế cải thiện đời sống cán bộ, công chức, người lao động trong các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp, khuyến khích người giỏi.

- Đổi mới cơ cấu và phương thức đầu tư của ngân sách nhà nước.

Ngân sách các cấp tăng cường đầu tư hàng năm cho xây dựng cơ sở vật chất các hoạt động sự nghiệp công như đã nói trên và thực hiện cơ cấu lại chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ công theo hướng chuyển từ giao dự toán ngân sách cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như hiện nay sang thực hiện phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không phân biệt cơ sở công lập, ngoài công lập nhằm tạo cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo cho các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập phát triển bình đẳng và giảm thiểu giá thành xã hội.

- Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản thiết yếu với chất lượng cao hơn.

- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: Tăng cường phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao, thực chất hơn cho các đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình đơn vị, khả năng và trình độ quản lý.

- Thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công lập; khắc phục tình trạng công, tư lẫn lộn.

- Đề nghị Bộ Tài chính cần nghiên cứu cơ chế nguồn làm lương để tạo điều kiện cho các đơn vị đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ và phát triển hoạt động sự nghiệp.

                                                                            Tác giả Phan Quý Phương

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy câp tổng 3.348.777
Truy câp hiện tại 699
Chung nhan Tin Nhiem Mang