Tình hình thực hiện nhiệm vụ tài chính-NSNN năm 2011
Bước vào năm 2011, tình hình kinh tế thế giới và trong nước khó khăn hơn so với dự báo. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, khủng hoảng nợ công, lạm phát tăng cao ở nhiều nước, thị trường chứng khoán suy giảm tác động tiêu cực đến nước ta. Kinh tế trong nước, bên cạnh những yếu kém nội tại, chưa có chuyển biến như phát triển thiếu bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp; kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành một thách thức lớn đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, kịp thời, quyết liệt, biểu hiện trên các mặt: lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; nhập siêu lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm mạnh gây sức ép lên tỷ giá, thị trường tiền tệ; giá vàng biến động bất thường; sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và một bộ phận nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, Bộ Tài chính cùng với các bộ, ngành khác đã tham mưu với Chính phủ ban hành 2 Nghị quyết ngày từ đầu năm, đặc biệt là Nghị quyết 11 ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Với đề xuất chính sách trúng, hướng dẫn, triển khai quyết liệt, kịp thời, đến nay, có thể đánh giá kết quả thưc hiện những giải pháp về tài chính - ngân sách đã có đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành những mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội năm 2011 của cả nước; cụ thể trên các mặt sau:
1. Chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước được thực hiện quyết liệt, đạt mục tiêu đề ra
- Thu ngân sách tăng cao so với dự toán Quốc hội: Ước thực hiện thu ngân sách cả năm đạt 674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán (Nghị quyết 11 đề ra mục tiêu tăng 7-8% so với dự toán), tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010. Trong đó: thu nội địa ước đạt 425.000 tỷ đồng, vượt 11,3% so dự toán, tăng 19,9% so thực hiện năm 2010; không kể thu tiền sử dụng đất thì vượt 8,4% so dự toán; các địa phương cơ bản ước thu đạt và vượt dự toán; thu từ dầu thô ước đạt 100.000 tỷ đồng, vượt 44,3% so với dự toán, chủ yếu do yếu tố giá dầu tăng thêm khoảng 25 USD/thùng so với giá dự toán; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 144.000 tỷ đồng, vượt 3,8% so với dự toán, tăng 10,7% so với năm 2010.
- Điều hành chi ngân sách tiết kiệm, chặt chẽ: Triển khai Nghị quyết qq của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chỉ đạo thực hiện tiết kiệm thêm 10% kinh phí thường xuyên, dành được 3.857,7 tỷ đồng để chinh an sinh xã hội; hướng dẫn thực hiện tạm dừng mua sắm ô tô, thiết bị văn phòng; yêu cầu rà soát, sắp xếp, điều chuyển vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ.
Các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đã triển khai thực hiện chi NSNN theo đúng dự toán, tiết kiệm 10% chi thường xuyên, tạm dừng mua sắm tài sản theo hướng dẫn; sắp xếp lại vốn đầu tư; triển khai một số nhiệm vụ cấp bách như khắc phục hậu quả thiên tai, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít Bộ, ngành, địa phương, đơn vị chưa nghiêm túc triển khai thực hiện.
- Bội chi NSNN tiếp tục giảm dần so với năm trước: ưu tiên dành nguồn vượt thu để giảm bội chi NSNN 2011 từ 5,3% xuống mức 4,9% GDP (năm 2010 dự toán 6,2% GDP, thực hiện còn 5,6%), tăng chi trả nợ năm 2011 thêm 15.000 tỷ đồng so với dự toán. Nhờ vậy, đã giảm dư nợ công trên 1% GDP (tính đến 31/12/2011 dự kiến nợ công là 54,6% GDP, nợ Chính phủ 43,6%GDP và nợ quốc gia 41,5% GDP nằm trong giới hạn an toàn an ninh tài chính quốc gia), góp phần ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát.
2. Điều hành giá thận trọng góp phần kiềm chế lạm phát
Bộ Tài chính đã chủ động báo cáo để điều chỉnh giá đối với xăng dầu, điện, than...theo nguyên tắc có kiềm chế sao cho phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, không đẩy chi số giá tăng quá cao, ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô (như việc điều hành giá xăng dầu cũng được tiến hành theo quan điểm có tăng, có giảm nhưng cơ bản là giữ bình ổn giá trong điều kiện giá thế giới thường biến động theo xu hướng tăng: đã sử dụng tốt đa các công cụ tài chính để điều hành giá xăng dầu như sử dụng Quỹ bình ổn giá; giảm thuế nhập khẩu xăng, ma dút về 0%, diedel, dầu hỏa về 5%). Đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương có liên quan tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá đối với một số mặt hàng quan trọng, không để tình trạng đột biến về giá; phối hợp với các chính sách tiền tệ, vĩ mô khác để đảm bảo cân đối cung cầu, tạo ổn định cho thị trường.
Với các giải pháp đã triển khai, tốc độ tăng chỉ số CPI từ tháng 5 đã có chiều hướng chậm lại (tháng 5 tăng 2,21%, tháng 6: tăng 1,09%, tháng 7: 1,17%, tháng 8: 0,93%, tháng 9: 0,82%, tháng 10: 0,36%, tháng 11: 0,39%) và ước cả năm tăng khoảng 18% so với tháng 12/2010.
3. Có chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh phù hợp, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, Quốc hội thực hiện miễn, giảm, giãn thuế, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho một bộ phận doanh nghiệp và cá nhân (khoảng 10. 000 tỷ đồng, khoảng 160.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được giãn thuế); điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu để hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô, tăng thuế đối với một số mặt hàng nhằm hạn chế nhập siêu, giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nhằm giảm chi phí đầu vào; ngành Hải quan, Thuế đã đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại; kiểm soát hàng hoá có nhiều rủi ro; thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá, truy thu vào NSNN hàng nghìn tỷ đồng.
4. Bố trí đầy đủ nguồn và triển khai thực hiện kịp thời các chính sách bảo đảm an sinh xã hội
Nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn, chính sách, vùng nghèo, vùng bị thiên tai, Bộ Tài chính đã chủ động bố trí đủ dự toán, và hướng dẫn triển khai các chính sách an sinh: Mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội trú, bán trú...; thực hiện hỗ trợ đột xuất đối với người nghèo, người có thu nhập thấp (250.000 đồng/người cho các đối tượng hưởng lương, trợ cấp bảo hiểm xã hội có mức lương thấp, các đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi người có công; hộ nghèo theo chuẩn mới); hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo (30.000 đ/hộ/tháng); sử dụng trên 3.000 tỷ đồng từ dự phòng NSTW để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; xuất cấp gần 65.000 tấn gạo để cứu trợ, cứu đói kịp thời cho nhân dân trong vùng bị khó khăn do thiên tai, dịch bệnh. Trong điều kiện NSNN còn hạn hẹp, chi cho an sinh xã hội đã tăng gần 20% so với năm 2010 với tổng chi khoảng 84 nghìn tỷ đồng.
5. Công tác quản lý, giám sát, sắp xếp lại DNNN tiếp tục được đẩy mạnh, tạo tiền đề cho việc tái cơ cấu lại hệ thống tập đoàn, tổng công ty
Tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý phục vụ cho công tác quản lý, giám sát tình hình tài chính của các DNNN ;
Hình thành cơ sở bước đầu để xây dựng, đề xuất phương án tái cấu trúc DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Khóa XI.
Công tác đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN tiếp tục được đẩy mạnh và đã tạo ra được những chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả DNNN.
Tóm lại, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, các giải pháp trong lĩnh vực tài chính đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ và kịp thời; chính sách tài khóa đã được điều hành chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và khuyến khích xuất khẩu. Các kết quả đạt được là tích cực, thu ngân sách đạt và vượt ở tất cả các lĩnh vực; chi ngân sách được điều hành chặt chẽ, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng và tăng cường công tác an sinh xã hội; bội chi NSNN giảm so dự toán; góp phần tích cực kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng kinh tế hợp lý, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin của xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
Về Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tài chính-NSNN năm 2012
1. Mục tiêu: Triển khai dự toán NSNN năm 2012 một cách tích cực; ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; tiếp tục thực hiện cơ cấu lại NSNN theo hướng ưu tiên đầu tư cho con người, cải cách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội; đảm bảo an ninh quốc phòng, an ninh tài chính quốc gia; tham gia tái cấu trúc kinh tế.
2. Những giải pháp chủ yếu về tài chính – ngân sách năm 2012
2.1.Tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá chặt chẽ, hiệu quả
- Phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi để giảm bội chi NSNN năm 2012 xuống dưới 4,8%GDP. Giao ngành thuế, hải quan phấn đấu tăng thu vượt 5-8% so với dự toán Quốc hội.
+Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.
- Ban hành đầy đủ các cơ chế, chính sách tài chính- ngân sách để thể chế hoá đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng theo mục tiêu, yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong 10 năm tới; nghiên cứu, xây dựng chính sách thu nhằm quản lý, khai thác hiệu quả nguồn thu từ đất đai, tài nguyên khoáng sản...tạo nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước; xây dựng kế hoạch và triển khai tốt chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII theo đúng tiến độ, mục tiêu đăng ký với Chính phủ.
- Tổ chức triển khai 2 Luật thuế mới có hiệu lực từ 1/1/2012 là Luật thuế bảo vệ môi trường, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Tăng cường quyết liệt chống thất thu, nợ đọng thuế, gian lận thương mại, buôn lậu, chống chuyển giá, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về thuế, hải quan.
- Thực hiện chi tiêu ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả. Yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương chủ động sắp xếp, bố trí trong phạm vi dự toán đã được giao để xử lý các nhiệm vụ phát sinh đột xuất trong năm. Không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp đặc biệt theo quyết định của Thủ tướng. Tiếp tục thực hiện nghiêm chủ trương tiết giảm tối đa chi phí hoạt động thường xuyên (điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, công tác phí, hội nghị...) .
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán các khoản chi NSNN; vay về cho vay lại; bảo lãnh vay của Chính phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước; các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, địa phương. Thực hiện minh bạch hoá chi tiêu của NSNN và đầu tư công, nhất là đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ và đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước; tăng cường kỷ luật tài chính- ngân sách.
- Quản lý, giám sát chặt chẽ nợ Chính phủ, nợ công, nợ quốc gia, bảo đảm nợ trong giới hạn an toàn; không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ; không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn; xây dựng các cơ chế, chính sách góp phần nâng cao hệ số tín nhiệm của quốc gia.
2.2. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tiếp tục xoá bỏ bao cấp, bù chéo bất hợp lý , chống độc quyền về giá
- Thực hiện xoá bỏ theo lộ trình cơ chế “bao cấp, bù chéo” về giá giữa các nhóm khách hàng đối với một số loại giá xăng dầu, điện, than, và một số loại phí sử dụng dịch vụ hạ tầng... theo lộ trình thích hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát.
- Triển khai có hiệu quả công tác quản lý giá, nhất là việc đăng ký giá, kê khai giá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết bằng đồng Việt Nam.
- Tiếp tục hoàn thiện Dự án Luật giá phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo, thông tin thị trường giúp cho điều hành, quản lý giá có hiệu quả ; chỉ đạo kiểm tra, giám sát giá hàng hóa, dịch vụ trước, trong, sau tết Nguyên đán Nhâm Thìn 2012, không để xảy ra tình trạng tăng đột biến về giá, lợi dụng, thao túng về giá.
2.3. Đẩy mạnh triển khai đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, thúc đẩy xã hội hoá các dịch vụ công
Triển khai thực hiện nhanh, có hiệu quả Kết luận của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự nghiệp. Ban hành cơ chế, chính sách để từng bước điều chỉnh khung giá dịch vụ công theo cơ chế thị trường đối với các lĩnh vực sự nghiệp công, trước mắt là giáo dục, y tế, từng bước tính tính đủ chi phí dịch vụ, đồng thời có chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, đối tượng chính sách.
2.4. Cơ chế tài chính gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
a)Thực hiện đồng bộ các giải pháp để tái cơ cấu đầu tư, tạo đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng lớn, hiện đại
- Cơ cấu lại đầu tư công: Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, sẽ thực hiện quyết liệt các giải pháp để tái cơ cấu đầu tư công, bao gồm các nguồn vốn đầu tư NSNN, vốn trái phiếu Chính phủ, tín dụng ưu đãi và đầu tư của các DNNN.
+Quản lý, điều hành chặt chẽ, yêu cầu bố trí vốn tập trung, đúng mục tiêu, đúng thời gian, hạn chế tối đa việc ứng vốn, không kéo dài thời gian thanh toán vốn đầu tư, không cho phép chuyển nguồn các khoản vốn chưa thanh toán hết.
+Chuẩn bị tốt cho xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn 2013-2015. Đối với các dự án đang được đầu tư từ vốn NSNN, trái phiếu Chính phủ, cần chủ động đánh giá để bán hoặc chuyển nhượng hoặc phải tạm dừng thực hiện.
+Đối với nguồn tín dụng đầu tư phát triển: Tiếp tục thu hẹp �ối tượng được vay ưu đãi; tập trung cho các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
+Đối với tái cơ cấu đầu tư của DNNN phải đặt trong tổng thể tái cơ cấu hệ thống DNNN, bao gồm cả việc cấu trúc lại cơ cấu nguồn vốn, ngành nghề sản xuất, kinh doanh, chiến lược thị trường,…
- Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: Tăng tỷ trọng đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước và đầu tư của tư nhân phù hợp với chính sách khuyến khích xã hội hóa trong các dịch vụ công cộng giáo dục, y tế, văn hóa. Khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao, giảm dần đầu tư vào công nghiệp lắp ráp, gia công, sử dụng nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
b). Triển khai có hiệu quả quá trình tái cấu trúc lại DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty
- Xây dựng kế hoạch triển khai Đề án tái cấu trúc DNNN sau khi được phê duyệt. Tiếp tục thực hiện thoái vốn nhà nước tại những doanh nghiệp đã cổ phần hoá và không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá DNNN ; tăng cường năng lực, công cụ giám sát tài chính DNNN; chú trọng việc đổi mới cơ chế quản trị doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, nhất là đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất - kinh doanh các mặt hàng thuộc diện quản lý giá của Nhà nước (như xăng dầu, điện, than,...) để xác định đúng lãi, lỗ, thúc đẩy công khai, minh bạch. Yêu cầu các DNNN thực hiện tiết giảm 5 - 10% chi phí quản lý, góp phần giảm giá thành sản phẩm, kiềm chế lạm phát.
- Tổ chức triển khai Đề án nâng cao năng lực quản lý và thành lập Tổng cục quản lý, giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước.
c) Tái cấu trúc thị trường ngân hàng, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính với bước đi phù hợp để hoàn thành cơ bản mục tiêu đề ra từ nay đến 2015
- Cơ cấu lại sản phẩm trên thị trường chứng khoán theo hướng nâng cao chất lượng, phát triển mới các sản phẩm có chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, chứng khoán theo yêu cầu; cơ cấu lại các nhà đầu tư theo hướng mở rộng nhà đầu tư chuyên nghiệp, các tổ chức đầu tư theo thông lệ quốc tế; tái cấu trúc lại các định chế tài chính (công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, tổ chức kinh doanh bảo hiểm) theo hướng nâng cao năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ và phòng ngừa rủi ro.
- Cơ cấu lại các Sở GDCK, thị trường chứng khoán bao gồm: thi trường giao dịch cổ phiếu, trái phiếu và thị trường công cụ tài chính phái sinh theo nguyên tắc hình thành thị trường thống nhất trên cơ sở chuẩn mực chung về niêm yết, công bố thông tin, quản trị điều hành thống nhất.
2.5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ, tăng cường phối hợp công tác giữa các đơn vị trong ngành
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài chính, sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế; Luật Hải quan, Luật Ngân sách nhà nước,…và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng thực hiện.
Đề cao vai trò trách nhiệm của công chức và thủ trưởng đơn vị trong giải quyết thủ tục hành chính; thực hiện nghiêm công khai quy trình, thủ tục, hồ sơ thủ tục hành chính.
Xây dựng kế hoạch để cải thiện tích cực hình ảnh của cơ quan thuế, hải quan đối với người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Triển khai có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, góp phần thiểu tục tục hành chính.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ trong toàn ngành, nhất là chức trách của cán bộ lãnh đạo, của người đứng đầu các đơn vị, tổ chức.
Tiếp tục hoàn thiện, sắp xếp bộ máy tổ chức, quy hoạch, đạo tạo công chức phù hợp với quá trình cải cách, hiện đại hoá trong ngành tài chính.
Các đơn vị trong ngành, nhất là giữa cơ quan ở TW với cơ quan ở ĐP cần chủ động, tích cực phối hợp nhịp nhàng trong triển khai nhiệm vụ của ngành và thực hiện công tác thông tin, báo cáo trung thực, kịp thời, đầy đủ nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về tài chính- ngân sách.
2.6. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh
Tiếp tục thực hiện chính sách tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế- vĩ mô, đời sống của người lao động thông qua chính sách giãn thuế TNDN năm 2012.
Giảm 50% tiền thuê đất trong cho các tổ chức kinh tế đang hoạt động trong các ngành sản xuất (không bao gồm các ngành thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ) đang thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm mà trong năm 2012 phải xác định lại đơn giá thuê đất theo quy định (nếu đáp ứng được điều kiện giảm).
2.7. Quản lý, sử dụng tài sản công tiết kiệm, hiệu quả
Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật và công cụ quản lý nhằm tăng cường quản lý tài sản công đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính, sắp xếp lại nhà, đất nhằm phát huy tối đa nguồn lực từ đất đai, công sản, tạo nguồn lực cho đầu tư phát triển, chỉnh trang đô thị, tái cơ cấu lại nền kinh tế.
2.8.Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền để tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành
Công khai hoá, minh bạch, đối thoại chính sách bằng nhiều phương thức phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, tính khả thi của các cơ chế, chính sách tài chính, tạo đồng thuận trong xã hội đối với các hoạt động của ngành; báo chí trong ngành cần là lực lượng xung kích trên mặt trận tuyên truyền; phối hợp với các cơ quan thông tấn bên ngoài để thông tin về các hoạt động của ngành./.
Theo www.mof.gov.vn