Trên nền tảng của những quy định chung, hệ thống kế toán đã được cụ thể hóa, vận dụng cho từng lĩnh vực kinh tế tài chính, như kế toán doanh nghiệp, kế toán ngân hàng, kế toán hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kế toán ngân sách nhà nước, kế toán kho bạc nhà nước, kế toán hợp tác xã, kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp…
Tuy nhiên, PGS.TS. Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam cho rằng, trên thực tế còn rất nhiều tài sản quốc gia, ngân quỹ nhà nước chưa được nhận dạng, chưa được kiểm kê và kiểm soát, chưa được kế toán. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có hệ thống kế toán để phản ảnh toàn bộ tài sản và ngân quỹ quốc gia và chưa được một tổ chức cụ thể chịu trách nhiệm phản ảnh và kiểm soát tập trung. Cả về lý thuyết lẫn trên thực tế, Nhà nước vẫn không biết được đầy đủ, chính xác tổng giá trị tài sản quốc gia, tổng nguồn ngân quỹ của Nhà nước, sự biến động và số hiện có của ngân quỹ nhà nước.
Tổng kế toán nhà nước quen mà lạ
Theo PGS.TS. Đặng Văn Thanh, tổng kế toán quốc gia hay tổng kế toán nhà nước là khái niệm quen thuộc ở nhiều quốc gia phát triển, là công cụ cần thiết và có hiệu quả để phản ánh, kiểm kê kiểm soát toàn bộ tài sản và ngân quỹ của một quốc gia, một đất nước. Ở Việt Nam, thuật ngữ này cũng đã xuất hiện từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX. Nhưng rất tiếc cho đến nay vẫn chưa tồn tại trên thực tế. Trong ngành thống kê, được sự giúp đỡ của Liên hiệp quốc, chúng ta đã xây dựng và vận hành khá thành công hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts – SNA). Các tài khoản chi phí và thu nhập quốc gia, các tài khoản phân phối… đã góp phần quan trọng trong việc tính thu nhập quốc nội và nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Riêng hạch toán kế toán - trong đó có kế toán nhà nước đã không bắt kịp những bước phát triển này của hạch toán thống kê. Những hiểu biết về kế toán nhà nước còn rất hạn chế, lại không được đầu tư thỏa đáng để nghiên cứu thật thấu đáo và có bài bản. Còn có sự khác nhau về nhận thức, sự lúng túng, thiếu kiên quyết và trí tuệ cần thiết cho việc triển khai. Cần có sự nhận thức đúng, thống nhất và cách thức xây dựng và duy trì hệ thống kế toán nhà nước - tổng kế toán quốc gia.
Trong cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia, tài chính luôn luôn là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, là tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính - tiền tệ. Tài chính không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển, khai thác các nguồn lực, thúc đẩy duy trì tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước. Với chức năng tập trung, phân phối, giám đốc bằng đồng tiền và tổ chức luân chuyển vốn, nguồn vốn, tài chính là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế gắn với phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ trong quá trình hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã hoạch định.
Tài chính, mà biểu hiện cụ thể là các quỹ tiền tệ được hình thành qua phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, thực chất là công cụ phân phối sản phẩm quốc dân. Thông qua phân phối tài chính, mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng được xác lập và từ đây các mối quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân được xác lập. Các quan hệ tài chính luôn giữ vai trò trung tâm trong quá trình thực hiện các giải pháp nhằm ổn định tiền tệ, bình ổn vật giá, nâng cao sức mua và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua các quan hệ phân phối, tài chính được sử dụng như một công cụ sắc bén điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Tài chính, trong đó có ngân sách nhà nước là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành của nền kinh tế được tiền tệ hóa, tài chính tham gia vào quá trình thực hiện các định hướng kinh tế của Nhà nước và hướng dẫn các hoạt động kinh doanh, điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Ngân sách nhà nước – bộ phận cấu thành quan trọng của tài chính nhà nước - là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô toàn diện các quan hệ kinh tế.
Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở hai mặt: Một mặt, ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ lớn, tập trung và là tiềm lực kinh tế, là thực hiện kinh tế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mặt khác, ngân sách nhà nước tham gia trực tiếp vào quá trình điều tiết kinh tế thống qua chính sách động viên (động viên qua thuế, phí, lệ phí, từ tài trợ, từ quỹ dự trữ tài chính…), bố trí cơ cấu đầu tư, điều chính cơ cấu kinh tế, hỗ trợ khuyến khích sản xuất trong nước, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, tham gia chính sách giá, tỷ giá và lãi suất tín dụng.
PGS.TS. Đặng Văn Thanh cho rằng, yêu cầu đặt ra là phải phản ánh cho được, kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ toàn bộ ngân quỹ nhà nước và tài sản quốc gia ở mọi thời điểm và sự vận động của nó. Bởi vì đây là tài sản của quốc gia, tiền của nhân dân. Kế toán là công cụ hữu hiệu ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tình hình và sự vận động của các nguồn tài chính (dưới các hình thức như thuế, phí, lợi ích quốc gia, các khoản vay, trả nợ, chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi chương trình, mục tiêu, dự án, các nhiệm vụ đặc biệt…), tài sản quốc gia và thông qua đó mà kiểm tra, kiểm soát được các chức năng, sự biến động, chuyển dịch của tài sản quốc gia, ngân quỹ nhà nước, giúp Nhà nước đưa ra được các quyết định kinh tế, những biện pháp quản lý kinh tế, tài chính hữu hiệu. Kế toán nhà nước là một bộ phận của kế toán nói chung trong nền kinh tế quốc dân, do vậy, cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và phương pháp kế toán chung. Tuy nhiên, Kế toán nhà nước có vị trí độc lập nhất định trong hệ thống kế toán chung, gắn liền với chu chuyển kinh tế - tài chính qua Ngân sách nhà nước, quỹ ngân sách nhà nước và ngân quỹ nhà nước.
Tuy Kế toán nhà nước, tổng kế toán quốc gia và kế toán doanh nghiệp có sự độc lập với nhau (kế toán của các chủ thể khác nhau, phản ánh những quan hệ kinh tế - tài chính không hoàn toàn giống nhau), nhưng có quan hệ với nhau chặt chẽ và trên nền tảng những nguyên tắc kế toán và phương pháp kế toán căn bản. Kế toán nhà nước phản ánh, kiểm tra và cung cấp thông tin hoạt động kinh tế - tài chính của nhà nước trên phạm vi cả nước, hay từng địa phương, toàn bộ hoạt động của Ngân sách nhà nước, của ngân quỹ nhà nước, nợ của nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và tài sản nhà nước, các hợp đồng kinh tế - tài chính của từng đơn vị sử dụng ngân quỹ nhà nước. Các đối tượng sử dụng thông tin kế toán nhà nước là Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước; các đơn vị sử dụng kinh phí nhà nước; các doanh nghiệp, tổ chức và nhân dân.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống kế toán nhà nước với tư cách là một trong kế toán nhà nước thực sự làm công tác kế toán nhà nước theo đúng nghĩa của nó. việc quản lý, kiểm soát thực trạng và sự biến động của tài sản quốc gia, các quỹ của nhà nước, nợ nhà nước, tài sản, vật tư, tiền vốn của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau.
Tại sao cần thành lập mô hình tổng kế toán nhà nước?
PGS.TS. Đặng Văn Thanh cho rằng, nền kinh tế ngày càng phát triển phong phú đa dạng với nhiều hình thức, độ mở càng rộng và hội nhập ngày càng sâu toàn diện vào kinh tế thế giới, kinh tế khu vực, đòi hỏi kế toán phải có sự thay đổi cho phù hợp để có thể phản ánh được đầy đủ, kịp thời các hoạt động về kinh tế của nhà nước.
Trước hết, cần có nhận thức đúng về ngân quỹ quốc gia, ngân quỹ nhà nước để có biện pháp và công cụ quản lý hiệu quả. Trong chừng mực nhất định có sự hiểu chưa đúng, chưa hết và nhầm lẫn về Tài chính nhà nước, ngân quỹ nhà nước. Ngân quỹ nhà nước do Kho bạc Nhà nước quản lý và kế toán hiện nay chưa phải là toàn bộ ngân quỹ nhà nước, chưa bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia. Nhưng cũng đã bao hàm nhiều nguồn ngân quỹ của Nhà nước mà trước hết là quỹ Ngân sách nhà nước, sau đó là các quỹ tập trung, quỹ chuyên dùng và các vốn quỹ thuộc chương trình, dự án của Nhà nước, cuối cùng là các khoản nợ vay, các khoản tiền gửi của các đơn vị thụ hưởng Ngân sách nhà nước và các ngân quỹ nhà nước…
Hai là, kế toán phải góp phần quản lý thống nhất tài chính nhà nước, xây dựng nền tài chính ổn định lành mạnh, đảm bảo sử dụng các nguồn lực tài chính, tiết kiệm có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản trị, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Thông tin phục vụ quản lý điều hành tài chính nhà nước vừa phải nhanh nhạy, vừa phải đầy đủ, chính xác, toàn diện và bao quát hết các hoạt động tài chính nhà nước. Hệ thống Kho bạc Nhà nước đã thực hiện một trong các chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính khác, hệ thống thông tin được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương (Kho bạc Nhà nước, kho bạc nhà nước tỉnh, huyện) đã góp phần quan trọng thu thập, cung cấp thông tin kịp thời về thu, chi quỹ Ngân sách nhà nước, tình hình nợ nhà nước (nợ trong nước) và một số quỹ tài chính nhà nước khác. Các cơ quan tài chính, thuế đã tập trung cung cấp thông tin chi tiết thu ngân sách theo từng lĩnh vực hoạt động, theo từng sắc thuế, chi ngân sách theo nội dung kinh tế, chi cấp phát đầu tư xây dựng và chi chương trình mục tiêu của Chính phủ. Các cơ quan, tổ chức tài chính khác thu thập và cung cấp thông tin nợ nhà nước (thu, chi viện trợ không hoàn lại, việc tăng giảm tài sản của quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước khác).
Tuy nhiên, việc thu thập cung cấp thông tin phục vụ quản lý điều hành tài chính nhà nước cũng trong tình trạng chia cắt cục bộ theo chức năng quản lý, chưa có sự gắn kết thống nhất giữa các cơ quan để thống nhất số liệu quản lý. Nhà nước thực hiện chệ độ dân chủ rộng rãi, các hoạt động kinh tế phải được công khai hóa trong phạm vi cho phép để mọi người dân được biết, được bàn và cùng thực hiện. Trong hoạt động về thu, chi Ngân sách nhà nước, sử dụng tài sản công quỹ nhà nước kể cả các khoản đóng góp của dân, thu, chi.
Ba là, vận dụng có chọn lọc các nguyên tắc và thông lệ quốc tế về kế toán vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để thiết lập tổng kế toán nhà nước. Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế, hệ thống quản lý tài chính nhà nước nói chung và hệ thống kế toán nói riêng phải có một bước đổi mới sâu sắc, toàn diện tạo ra môi trường kinh tế lành mạnh, các quan hệ kinh tế và thông tin cung cấp về tài chính nhà nước phản ánh kịp thời, đa dạng phù hợp với yêu cầu thông tin của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện này đòi hỏi hệ thống Kế toán nhà nước Việt Nam một mặt phải thừa nhận những nguyên tắc, chuẩn mực và thống lệ kế toán nhà nước của thế giới, mặt khác, phải sớm hình thành mô hình tổng kế toán nhà nước ở Việt Nam phù hợp với lộ trình cải cách hành chính của Việt Nam và trình độ công nghệ tài chính ngân hàng trong việc xử lý các quan hệ nghiệp vụ kinh tế - tài chính.
Bốn là, cần có Luật Tài chính nhà nước làm nền tảng và là cơ sở pháp lý cho việc quản lý tài chính nhà nước và tổ chức kế toán nhà nước. Luật về tài chính nhà nước sẽ điều chỉnh và chế tài toàn bộ nguồn vốn quỹ của Nhà nước, cách thực hiện phân bổ và phương thức sử dụng. Trên nền tảng đó có những quy định pháp lý về Kế toán nhà nước. Các quy định của Luật Tài chính nhà nước và luật kế toán xác định rõ ràng phương pháp “kép”, phân biệt rõ ngân sách và kế toán. Như vậy, vẫn giữ lại kế toán “tiền mặt” trong theo dõi quản lý việc chấp hành ngân sách và chấp thuận kế toán “dồn tích” trong kế toán tổng hợp. Phương pháp kế toán dồn tích trở thành “ yếu tố trung tâm trong kế toán nhà nước”, trong đó, phát triển các loại kế toán khác: kế toán ngân sách và kế toán chi phí của chính phủ, chi phí xã hội.
Năm là, triển khai đầy đủ cả ba yếu tố của kế toán nói chung và Kế toán nhà nước nói riêng:
Kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp của nhà nước được tiến hành theo phương pháp kế toán dồn tích “dựa trên nguyên tắc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ”, các nghiệp vụ được “tính vào kỳ ngân sách liên quan đến nghiệp vụ đó, hoàn toàn độc lập với thời điểm chi trả hay nhập quỹ”. Như vậy, kế toán tổng hợp của Nhà nước tuân thủ luật kế toán chung. Kế toán dồn tích cấu thành nên “trục chính của hệ thống Kế toán nhà nước” và phải “thể hiện được một cách chính xác tình hình tài chính của Nhà nước thông qua các luồng tiền phải thu và nợ, tức là thể hiện rõ tính xác thực các tài khoản của Nhà nước”.
Kế toán ngân sách: Theo đuổi 2 mục tiêu, cho phép phản ánh các khoản chi tiêu ngân sách đã được Quốc hội quyết định (hàng năm hoặc nhiều năm); công tác kế toán phải thể hiện được việc chấp hành
Kế toán quản trị: Ngoài kế toán tổng hợp, kế toán ngân sách, Nhà nước còn phải triển khai một loại hình kế toán khác nữa (kế toán quản trị) dùng để phân tích chi phí, lợi ích của các hoạt động Nhà nước.
Sáu là, chuẩn bị tốt các điều kiện cho thiết lập và vận hành tổng kế toán nhà nước trong thời gian tới như nhận thức, nguồn nhân lực, kỹ năng và các điều kiện vật chất.
(Trung Kiên) - Theo www.taichinhdientu.vn