Tích cực chuyển hướng kinh tế
WB đánh giá sự phục hồi kinh tế của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã diễn ra nhanh chóng nhưng không đồng đều. Tốc độ tăng trưởng của những chỉ số kinh tế chủ chốt như GDP thực, sản xuất công nghiệp, đầu tư và xuất khẩu được trông đợi sẽ phục hồi gần tới tốc độ tăng trưởng tiền khủng hoảng. Nhưng thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao và các hộ gia đình cũng như các công ty dường như vẫn tiếp tục dự trữ vàng và ngoại tệ, gây áp lực liên tục cho đồng nội tệ.
Cũng theo WB, nền kinh tế đất nước sẽ bị tác động bởi năm bầu cử đang đến gần. Đại hội Đảng lần thứ XI theo kế hoạch sẽ diễn ra vào tháng 1/2011, và bộ máy lãnh đạo mới sẽ bắt đầu nhận nhiệm sở vào năm 2011. Với hệ thống chính quyền một đảng, tác động của Đại hội Đảng mới và bộ máy lãnh đạo mới lên nền kinh tế có thể hoàn toàn khác so với những quốc gia có chế độ đa đảng. Những nỗ lực đưa ra những động lực thúc đẩy mới cho cải cách về tổ chức dường như phải được cân nhắc. Hai văn kiện quan trọng chuẩn bị cho Đại hội Đảng (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015) đều có chủ đề quan trọng là tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng “ tăng trưởng ổn định trên cơ sở chất lượng” . Những văn kiện này nhấn mạnh việc đạt được mức tăng trưởng nhanh thông qua tính hiệu quả cao hơn trong đầu tư (trái với việc tăng vốn tích lũy), con đường tăng trưởng theo hướng bền vững với môi trường và giá trị gia tăng lớn hơn.
WB cho rằng thực tế 3 năm vừa qua đã chứng kiến những thay đổi đột ngột trong môi trường kinh tế toàn cầu, buộc các cấp chính quyền Việt Nam phải hiệu chuẩn lại việc ban hành chính sách của mình. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng quá nóng như một hệ quả của dòng vốn đầu tư đổ vào ngày càng lớn. Đến khi Chính phủ có những biện pháp để ổn định nền kinh tế, thì khủng hoảng kinh tế đã tiến đến biên giới. Vì thế, Chính phủ phải chuyển hướng kinh tế vào cuối năm 2008 để phục hồi các hoạt động kinh tế bằng cách áp dụng một gói kích thích tài chính và tiền tệ lớn. Gói kích thích cùng với tính co giãn tương đối của các ngành xuất khẩu và tài chính quốc gia đã giúp hạn chế sự đi xuống của hoạt động năm 2009. Với sự phục hồi đang diễn ra trong năm 2010, Chính phủ lại một lần nữa chuyển hướng nền kinh tế. Tại thời điểm này, Chính phủ đang cố gắng giảm dần gói kích thích kinh tế mà không gây biến động đến nền kinh tế trong khi nỗ lực giữ vững hoạt động kinh tế tốt trong giai đoạn Đại hội Đảng đang đến gần.
Một hiệu chỉnh giảm dần gói kích cầu đang được tiến hành. Một phần của gói kích cầu được tài trợ trực tiếp từ ngân sách đã được rút ra, với tổng thâm hụt tài chính dự kiến giảm từ 8,9% GDP năm 2009 xuống còn 5,9% năm 2010. Các nguồn thu nhập mạnh hơn có thể giúp cắt giảm thâm hụt ở mức 5,5%. Một số gói kích thích tiền tệ cũng đã được rút ra, dù những nỗ lực tăng vốn tối thiểu cho ngân hàng vẫn phải đối mặt với sự phản đối từ phía ngành ngân hàng. Trong 8 tháng đầu năm 2010, tín dụng ước tính tăng 16% so với mức tăng 27% so với cùng kì năm ngoái. Tăng trưởng tín dụng năm 2010 nhìn tổng thể có thể sẽ thấp hơn 25% mục tiêu do Ngân hàng Nhà nước đặt ra.
Nền kinh tế thực tế đã phục hồi tương đối mạnh mẽ. GDP thực ước tính tăng trưởng 5,3% năm 2009 và đang trên đà đạt được mục tiêu 6,5% năm 2010. Sản xuất công nghiệp được dự đoán tăng 12,5% năm 2010 sau khi tăng trưởng tụt xuống mức 7,6% năm 2009. Xuất khẩu cũng phục hồi trở lại mức tăng trưởng hàng năm 20% trước khủng hoảng. Tăng trưởng trong hình thành nguồn vốn cố định và tiêu dùng cá nhân tiếp tục là nguồn chiếm ưu thế, đóng góp lũy tiến vào tăng trưởng GDP thực tế tăng từ 5,7% điểm năm 2009 lên 6,9% điểm năm 2010.
Việc các công ty từng bước phân bố lại vị trí nhà máy ở những nước đòi hỏi mức lương cao ở khu vực Đông Á đã bắt đầu mang lại lợi ích cho Việt Nam, nơi mức lương đòi hỏi tương đối thấp, lại có vị trí địa lý giáp biển, rất thuận lợi để thu hút các nguồn đầu tư.
Sự phục hồi đầu tư được kết hợp với sự phục hồi đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ 6,9 tỷ đôla năm 2009 lên 7,6 tỷ đôla năm 2010 (xem Phụ lục 1).