Tìm kiếm tin tức
Đơn vị hỗ trợ
ĐỀ CƯƠNG THÔNG BÁO KẾT QUẢ HỘI NGHỊ TW 5, KHÓA XI*
Ngày cập nhật 12/11/2012

 Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, Hội nghị Trung ương 5 họp trong 9 ngày (từ ngày 07 đến 15/5/2012). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng khai mạc và bế mạc Hội nghị.

 * Hội nghị Trung ương 5 tập trung thảo luận và thông qua các vấn đề rất quan trọng:

Thứ nhất, thảo luận và cho ý kiến về Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992;

Thứ hai, bàn và cho ý kiến Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”;

Thứ ba, bàn và cho ý kiến về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”;

Thứ tư, bàn và cho ý kiến về “Một số vấn đề về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2012 – 2020”;

Thứ năm, bàn và xem xét, cho ý kiến sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”.

* Ngoài ra, Hội nghị Trung ương lần này cũng thảo luận và cho ý kiến trực tiếp vào văn bản các nội dung quan trọng khác như:

- Báo cáo kết quả những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 4 đến Hội nghị Trung ương 5.

- Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2012.

Sau giải trình của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua nội dung 04 Kết luận và 01 nghị quyết:

Bốn Kết luận gồm: Thứ nhất, Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 2012 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”; thứ hai, Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; thứ ba, Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”; thứ tư, Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”.

Cùng với 4 Kết luận nêu trên, Trung ương ban hành Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.

Nội dung thứ nhất

Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992

I. Về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992

Những thành tựu nổi bật trong việc thi hành Hiến pháp năm 1992:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở hiến định cho việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục phát huy nhân tố con người, bước đầu hội nhập thành công kinh tế quốc tế; tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thứ hai, trên cơ sở và để thực thi Hiến pháp năm 1992, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta ngày càng được hoàn thiện, có những tiến bộ vượt bậc so với giai đoạn trước đó cả về số lượng và chất lượng; đặc biệt nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội đã được điều chỉnh bằng luật…

Thứ ba, trong thực tiễn thi hành, việc thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế được xác định trong Hiến pháp đã góp phần đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp được tăng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 có một số hạn chế, bất cập cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 chú trọng đến việc thiết lập cơ sở hiến định để đổi mới kinh tế, nhưng chưa có sự hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước; quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện chủ yếu dưới hình thức dân chủ đại diện; cơ chế bảo vệ hiến pháp còn phân tán, giao cho nhiều chủ thể cùng tiến hành, chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý vi phạm Hiến pháp khi cần thiết.

Mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, cơ quan nào thực hiện quyền hành pháp và cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp chưa được xác định rõ; vẫn còn có sự trùng lặp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước. Các quy định của Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có một số điểm chưa phù hợp. Quy định của Hiến pháp trong một số lĩnh vực còn mang tính giải pháp, chính sách cụ thể, chưa bảo đảm tính ổn định của Hiến pháp, đồng thời, bảo đảm linh hoạt trong quản lý, điều hành.

Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp còn có những điểm chưa bảo đảm tính đồng bộ; có những nội dung quan trọng của Hiến pháp chưa được cụ thể hoá thành luật. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) còn có trường hợp chưa bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật quốc gia.

Thứ ba, trong thực tiễn thi hành Hiến pháp, một số nội dung về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị có mặt còn chuyển biến chậm; nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân về ý nghĩa, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Hiến pháp chưa thật sâu sắc và toàn diện; dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; có những chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước chưa thực hiện được hoặc thực hiện còn chậm trên thực tế. Khẩu hiệu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật chưa được nghiêm chỉnh thực hiện.

II. Những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã có đủ cơ sở, tạo được sự thống nhất cao và về cơ bản Trung ương lần này tán thành với 9 vấn đề:

1. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

2. Sửa đổi Hiến pháp 1992 để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước

3. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội

4. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân

5. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường

5.1. Về sở hữu đất đai

5.2. Về các thành phần kinh tế

5.3. Đối với các ý kiến phát biểu về văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, sẽ được nghiên cứu, tiếp thu và thể hiện rõ trong các quy định cụ thể của Hiến pháp.

6. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

7. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

7.1. Xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

7.2. Về Quốc hội

7.3. Về Chủ tịch nước

7.4. Về Chính phủ

7.5. Về Tòa án nhân dân

7.6. Về Viện kiểm sát nhân dân

7.7. Về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

7.8. Về cơ chế bảo vệ Hiến pháp

8. Về quy trình sửa đổi Hiến pháp

9. Về kỹ thuật lập hiến

Trung ương tán thành với đề xuất của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp về kết cấu của Hiến pháp: Đề nghị sửa tên Chương I của Hiến pháp năm 1992  thành “Chế độ chính trị”, đưa nội dung Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh vào cuối Chương I; gộp Chương II và Chương III của Hiến pháp năm 1992 thành Chương “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường”; đổi tên Chương V của Hiến pháp năm 1992 thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và chuyển về đặt sau Chương I; đổi tên Chương IX của Hiến pháp năm 1992 thành “Chính quyền địa phương” và sắp xếp, bố cục lại một số nội dung của Hiến pháp cho hợp lý hơn.

Nội dung thứ hai

Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

I. Tình hình tổ chức thực hiện Nghị quyết

1. Những mặt được

1.1. Việc học tập, quán triệt Nghị quyết đã tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động, trước hết từ lãnh đạo các cấp đến cán bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, nội dung đổi mới của Đảng và Nhà nước về chính sách, pháp luật đất đai.

1.2. Phân bổ quỹ đất đáp ứng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất về cơ bản phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quỹ đất nông nghiệp đã đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ và phát triển rừng…

1.3. Chính sách, pháp luật đất đai từng bước được hoàn thiện, đã đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội.

1.4. Các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện đã làm cho người sử dụng đất gắn bó với đất đai, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng đất.

1.5. Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất đã tạo lập được cơ chế hoạt động, phát triển tương đối đồng bộ; từng bước hoàn thiện chính sách tài chính đất đai theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đưa đất đai trở thành nguồn nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước.

1.6. Công tác quản lý nhà nước về đất đai đã có nhiều chuyển biến, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai từng bước được củng cố, cán bộ làm công tác quản lý đất đai được tăng cường.

2. Những hạn chế, yếu kém

2.1. Công tác quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế, bất cập.

2.2. Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài; nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.

2.3. Nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2.4. Thủ tục hành chính về đất đai vẫn còn bất cập.

2.5. Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất còn bộc lộ những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” khá phổ biến.

2.6. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai chưa đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp cơ sở. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý đất đai còn hạn chế.

II. Quan điểm chỉ đạo và định hướng tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai

1. Quan điểm chỉ đạo

Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Trong thời gian tới tiếp tục kế thừa những quan điểm chỉ đạo về chính sách, pháp luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), đồng thời có bổ sung và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

2. Định hướng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai

2.1. Về sở hữu đất đai

2.2. Về chính sách giao đất nông nghiệp

2.3. Về thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân

2.4. Về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp

2.5. Quyền của người sử dụng đất

2.6. Về giá đất

2.7. Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

2.8. Phát triển thị trường bất động sản

2.9. Tạo nguồn lực từ đất đai

2.10. Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai

2.11. Cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai

Nội dung thứ ba

Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng”

I. Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết

1. Về kết quả đạt được

1.1. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (viết tắt là PCTN, LP) được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, thiết thực, gắn với việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội và cán bộ, đảng viên, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ và không ít người đã tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.

1.2. Tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên; vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát đảng viên được tăng cường.

1.3. Công tác cán bộ phục vụ PCTN, LP tiếp tục được hoàn thiện. Một số quy định về quản lý cán bộ đảng viên, công chức, viên chức theo hướng công khai, minh bạch, phân cấp mạnh cho cơ sở và tăng quyền hạn, trách nhiệm cho người đứng đầu đã được ban hành, nhất là trong việc giới thiệu cán bộ ứng cử, việc bổ nhiệm, tuyển dụng, việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm…

1.4. Việc xây dựng thể chế về PCTN, LP có nhiều tiến bộ.

1.5. Đã chỉ đạo đẩy mạnh việc công khai minh bạch hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị gắn với cải cách thủ tục hành chính và phát huy dân chủ.

1.6. Các cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội tiếp tục được hoàn thiện để góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản; thu, chi ngân sách nhà nước, sử dụng tài sản và đầu tư, mua sắm công, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, tín dụng ngân hàng…

1.7. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan về PCTN được kiện toàn, bước đầu phát huy hiệu quả.

1.8. Công tác phát hiện và xử lý các hành vi sai phạm, tham nhũng, lãng phí có bước tiến bộ.

1.9. Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác PCTN, LP được chú trọng hơn.

1.10. Các hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN tiếp tục được mở rộng.

2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân

2.1. Hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN, LP hiệu quả chưa cao.

Thứ hai, nhiều chi bộ chưa quản lý tốt đảng viên, chưa phát hiện và đấu tranh kịp thời những trường hợp có dấu hiệu vi phạm; hầu hết các vụ việc tham nhũng, lãng phí không phải do chi bộ và cơ quan, đơn vị phát hiện.

Thứ ba, công tác cán bộ phục vụ PCTN, LP chưa đáp ứng yêu cầu.

Thứ tư, công tác hoàn thiện thể chế về PCTN, LP vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.

Thứ năm, việc công khai, minh bạch trong các hoạt động có liên quan đến người dân, doanh nghiệp và tài chính, tài sản nhà nước của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn còn nhiều hạn chế. Việc xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng lạm dụng quy định về bí mật nhà nước để không công khai hoạt động của các cơ quan Nhà nước còn khá phổ biến.

Thứ sáu, thể chế quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều sơ hở dễ bị lợi dụng để tham nhũng, lãng phí và gây nhũng nhiễu đối với tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân.

Thứ bảy, hiệu quả hoạt động của các cơ quan về PCTN chưa cao.

Thứ tám, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí còn hạn chế.

Thứ chín, công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp về PCTN, LP chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.

Thứ mười, việc vận dụng kinh nghiệm PCTN, LP của các tổ chức quốc tế và nước ngoài vào thực tiễn Việt Nam còn hạn chế.

3. Đánh giá chung

Nhìn chung, các cấp ủy đảng, chính quyền đã nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Luật PCTN, Luật THTK, CLP. Sau 5 năm thực hiện, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã tạo được những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động trong PCTN, LP. Công tác PCTN, LP đã đạt được những kết quả bước đầu. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế. Những kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cao hơn trong công tác PCTN, LP. Kết quả đó cũng khẳng định những chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3, Luật PCTN, Luật THTK, CLP là cơ bản đúng đắn, phù hợp.

Tuy nhiên, công tác PCTN, LP nói chung và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 nói riêng trong những năm qua vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

II. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp

1. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo

Quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay; tiếp tục thực hiện đồng bộ các mục tiêu, quan điểm, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, LP với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật để tạo chuyển biến mới trong công tác PCTN, LP.

2. Nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí

2.1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí

2.3. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí

2.4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí

2.5. Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí

III. Về “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”

1. Mục tiêu, nguyên tắc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo, Văn phòng Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng

1.1. Mục tiêu, nguyên tắc

a. Mục tiêu

Nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tạo chuyển biến mới về công tác phòng và chống nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, nhất là tăng cương công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố; xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp được nhân dân quan tâm để củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

b. Nguyên tắc

- Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đối với tổ chức và hoạt động phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Kiện toàn tổ chức Ban Chỉ đạo và cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương, địa phương bảo đảm khách quan, đủ mạnh, thực quyền, hiệu lực, hiệu quả để thực hiện tốt chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng.

- Tăng cường trách nhiệm, nâng cao chất lượng hoạt động trong chỉ đạo, phối hợp và kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, tổ chức trong hoạt động phòng, chống tham nhũng.

2. Kiện toàn tổ chức Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng

Tiếp thu ý kiến thảo luận của Trung ương ở tổ, ở hội trường và kết quả thăm dò, Bộ Chính trị đề xuất với Trung ương về mô hình Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng. Từ kết quả thăm dò ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị thảo luận, thống nhất trình Ban Chấp hành Trung ương bỏ phiếu về phương án kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương và địa phương, Trung ương đã bỏ phiếu với kết quả rất tập trung và thống nhất:

Ở Trung ương: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, gồm một số đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Bộ Chính trị sẽ cân nhắc, lựa chọn các thành viên khác của Ban Chỉ đạo cho phù hợp, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo (Ban Nội chính Trung ương) về phòng, chống tham nhũng.

Ở địa phương: Không tổ chức ban chỉ đạo tỉnh, thành phố về phòng, chống tham nhũng. Tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và có trách nhiệm phối hợp với Ban Chỉ đạo Trung ương khi có các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Thành lập lại ban nội chính ở các tỉnh uỷ, thành ủy để tham mưu cho cấp uỷ về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bộ Chính trị sẽ thảo luận, quyết định cụ thể theo định hướng của Trung ương.

Nội dung thứ tư

Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020

I. Về định hướng chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020

1. Về quan điểm chỉ đạo

Thứ nhất, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công và bảo đảm an sinh xã hội là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội.

Thứ hai, các chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên đối với người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện; phải bảo đảm công bằng và bền vững có tính chia sẻ giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

Thứ tư, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.

Thứ năm, tăng cường hội nhập quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

2. Về mục tiêu tổng quát

“Tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công và gia đình, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản hoàn thành mục tiêu đảm bảo các gia đình người có công có mức sống tối thiểu bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Đến năm 2020 cơ bản bảo đảm an sinh xã hội bao phủ toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin”.

3. Về nhiệm vụ và giải pháp

3.1. Về chính sách ưu đãi người có công

3.2. Về bảo đảm an sinh xã hội

Thứ nhất, về việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo

Thứ hai, về bảo hiểm xã hội

Thứ ba, về trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn

Thứ tư, bảo đảm mức tốt thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn

3.3. Giải pháp chung và nguồn lực thực hiện

Nội dung thứ năm

Về “Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu

đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”

 

I. Về đánh giá tình hình và định hướng đến năm 2020

1. Về đánh giá tình hình

Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công từ năm 2003 được thực hiện theo các Kết luận của Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) và Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) từng bước được hoàn thiện, đã góp phần cải thiện đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu và người có công.

Tuy nhiên, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Tiền lương thấp kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu, người có công và chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ. Tiền lương của một số doanh nghiệp nhà nước cao, chênh lệch bất hợp lý giữa lương của viên chức quản lý với người lao động trong doanh nghiệp và cán bộ, công chức. Giải pháp tạo nguồn cho cải cách tiền lương và trợ cấp xã hội, nhất là khu vực sự nghiệp công chưa đạt yêu cầu.

2. Về định hướng chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đến năm 2020

2.1. Về quan điểm, nguyên tắc: Ngoài các quan điểm, nguyên tắc đã nêu trong Tờ trình của Ban cán sự đảng Chính phủ, cần phải có quyết tâm chính trị để thực hiện các quyết sách về chính sách tiền lương, nhất là đối với khu vực sự nghiệp công; cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đối tượng hưởng lương và trợ cấp; thực hiện trả lương theo vị trí việc làm gắn với quản lý chặt chẽ biên chế, cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức, bộ máy.

2.2. Về mức lương tối thiểu: Điều chỉnh mức lương tối thiểu theo lộ trình gắn với đổi mới hoạt động sự nghiệp, phù hợp với khả năng nền kinh tế để tiến tới bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người hưởng lương.

Thực tế hiện nay mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước thấp hơn khu vực doanh nghiệp là do số lượng đối tượng do ngân sách nhà nước chi trả lớn và tăng nhanh, khả năng ngân sách nhà nước chưa đủ đáp ứng để nâng mức lương tối thiểu đạt mức nhu cầu tối thiểu. Đối với doanh nghiệp, để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu nhanh hơn để đến năm 2015 đạt mức nhu cầu tối thiểu.

2.3. Về quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa: Nghiên cứu mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa cho phù hợp với quan hệ thị trường; trên cơ sở đó, thiết kế lại hệ thống thang, bậc lương và tiếp tục hoàn thiện các chế độ phụ cấp cho phù hợp.

2.4. Về thang, bậc lương: Áp dụng một bảng lương chung, yếu tố đặc thù ngành nghề được thực hiện bằng chế độ phụ cấp; đồng thời nghiên cứu để mở rộng khoảng cách giữa các bậc lương cho phù hợp.

2.5. Về các chế độ phụ cấp: Rà soát các chế độ trợ cấp, phụ cấp giữa các ngành, nghề để bảo đảm công bằng, hợp lý; nghiên cứu, rà soát sắp xếp gộp các chế độ phụ cấp (ưu đãi, trách nhiệm theo nghề, công vụ) thành một loại phụ cấp với các mức khác nhau cho phù hợp.

2.6. Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập: Tiếp tục thực hiện khoán biên chế, kinh phí quản lý hành chính. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vục sự nghiệp công theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khóa X.

2.7. Về tiền lương đối với viên chức quản lý doanh nghiệp: Quy định khung tiền lương cơ bản có khống chế mức lương tối đa của viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước gắn với kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn.

2.8. Về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ sở: Thực hiện khoán số lượng chức danh, quỹ lương và quỹ phụ cấp đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở, khuyến khích kiêm nhiệm.

2.9. Về bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công: Nghiên cứu, sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội để bảo đảm quyền lợi của người lao động, bảo đảm nguyên tắc đóng - hưởng và cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.

Nghiên cứu sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công, bảo đảm tương quan hợp lý về chính sách giữa những người có công; đồng thời đơn giản hoá thủ tục hành chính trong thực hiện chính sách người có công.

II. Về các giải pháp tạo nguồn

1. Thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước để tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương theo hướng ngân sách nhà nước cơ bản đảm bảo nhu cầu kinh phí cho khu vực hành chính, lực lượng vũ trang, phù hợp với khả năng của nền kinh tế; đồng thời thực hiện tiết kiệm tối đa để góp phần tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương.

2. Đối với khu vực sự nghiệp công lập, đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính, thực hiện đẩy mạnh xã hội hoá theo lộ trình, bảo đảm phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) và Thông báo số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 về thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” .

III. Đối với một số nội dung thực hiện trong năm 2012 và năm 2013

1. Thực hiện chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2012 và năm 2013 cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Đề án về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đến năm 2020 để trình Hội nghị Trung ương 7 khóa XI./.

 

Đảng ủy Sở Tài chính

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
 
Thống kê truy cập
Truy câp tổng 3.311.767
Truy câp hiện tại 276
Chung nhan Tin Nhiem Mang